大清世宗憲皇帝
朕思六經皆治世之書,而帝王之大經大法,昭垂萬古者,惟尚書為最備。蓋自繼天立極,精一執中,二帝三王之心法,遞相授授,而治法亦因之以傳。今觀書所載,成天平地,經國造邦,建官立教,禮樂兵刑之弘綱大用,與夫賡揚都俞之休風,嘉謨嘉猷之陳告。凡所為永膺天命,而致時雍協和之效者,雖相去數千年,尚可於方策中想見。其欽明寅畏之衷,敷布經綸之跡,後之君臣得奉為模楷,以追蹤於唐虞三代之隆,詎不於書是賴哉?我皇考聖祖仁皇帝,聖學淵深,治功弘遠,存於中者,二帝三王之心,發於外者,二帝三王之治,而稽古好學於典謨訓誥之篇,沈潛研究,融會貫通。初命講官分日進講,著有解義一編頒示海内,復指授儒臣薈萃漢、唐、宋、元、明諸家之說,參考折中,親加正定,廣大悉備,於地理山川援今據古,靡不精核,為《書經傳說彚纂》凡二十有四卷。茲值刊校告竣,與易、詩、春秋諸經次第傳布。敬製序文,勒之卷首。夫後世之天下,唐虞三代之天下也,而治法之垂為典章,心法之原于性命者,先後同揆,百世之聖君賢輔未能易也。故為君者必思比德于堯、舜、禹、湯、文、武而後無忝乎為君,為臣者必思匹休于皋、夔、伊、傅、周、召而後無忝乎為臣。朕夙夜兢兢,冀克守主敬存誠之道,以遂勛覲光揚烈之懷,尤冀卿尹百執事,共體元首股肱之誼,殫協恭勵翼之忱,寅亮天工,咸和民志,俾薄海內外,永底乂安。於以遠宗聖哲而仰承皇考尊崇經學啓牖萬世之盛 心,顧不美歟?是為序。
雍正八年仲春十二日
Phiên âm:
NGỰ CHẾ THƯ KINH TRUYỆN THUYẾT VỰNG TOẢN TỰ
Đại Thanh Thế Tông Hiến Hoàng đế
Trẫm tư Lục kinh giai trị thế chi thư, nhi đế vương chi đại kinh đại pháp, chiêu thùy vạn cổ giả, duy Thượng thư vi tối bị. Cái tự kế thiên lập cực, tinh nhất chấp trung, nhi đế tam vương chi tâm pháp, đệ tương thụ thụ, nhi trị pháp diệc nhân chi dĩ truyền. Kim quan thư sở tải, thành thiên bình địa, kinh quốc tạo bang, kiến quan lập giáo, lễ nhạc binh hình chi hoằng cương đại dụng, dữ phù canh dương đô du chi hưu phong, gia mô gia du chi trần cáo. Phàm sở vi vĩnh ưng thiên mệnh, nhi chí thời ung hiệp hòa chi hiệu giả, tuy tương khứ sổ thiên niên, thượng khả ư phương sách trung tưởng kiến. Kỳ khâm minh dần úy chi trung, phu bố kinh luân chi tích, hậu chi quân thần đắc phụng vi mô khải, dĩ truy tung ư Đường Ngu tam đại chi long, cự bất ư thư thị lại tai? Ngã hoàng khảo Thánh tổ Nhân hoàng đế, thánh học uyên thâm, trị công hoằng viễn, tồn ư trung giả, nhị đế tam vương chi tâm, phát ư ngoại giả, nhị đế tam vương chi trị, nhi kê cổ hiếu học ư điển mô huấn cáo chi thiên, trầm tiềm nghiên cứu, dung hội quán thông. Sơ mệnh giảng quan phân nhật tiến giảng, trứ hữu giải nghĩa nhất thiên ban thị hải nội, phúc chỉ thụ Nho thần oái tụy Hán, Đường, Tống, Nguyên chư gia chi thuyết, tham khảo chiết trung, thân gia chính định, quảng đại tất bị, ư địa lí sơn xuyên viên kim cứ cổ, mi bất tinh hạch, vi “Thư kinh truyện thuyết vựng toản” phàm nhị thập hựu tứ quyển. Tư trực san hiệu cáo tuấn, dữ Dịch, Thi, Xuân Thu chư kinh thứ đệ truyền bố, kính chế tự văn, lặc chi quyển thủ. Phù hậu thế chi thiên hạ, Đường Ngu tam đại chi thiên hạ dã, nhi trị pháp chi thùy vi điển chương, tâm pháp chi nguyên ư tính mệnh giả, tiên hậu đồng quỹ, bách thế chi thánh quân hiền phô vị năng dị dã. Cố vi quân giả tất tư tỉ đức ư Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ nhi hậu vô thiểm hồ vi quân, vi thần giả tất tư khu hưu ư Cao, Quỳ, Y, Phó, Chu, Thiệu nhi hậu vô thiểm hồ vi thần. Trẫm túc dạ căng căng, kí khắc thủ chủ kính tồn thành chi đạo, dĩ toại huân cẩn quang dương liệt chi hoài, vưu kí khanh doãn bách chấp sự, cộng thể nguyên thủ cổ quăng chi nghị, đàn hiệp cung nghị dực chi thầm, dần lượng thiên công, hàm hòa dân chí, tỉ bạc hải nội ngoài, vĩnh để nghệ an. Ư dĩ viễn tông thánh triết nhi ngưỡng thừa hoàng khảo tôn sùng kinh học, khải dũ vạn thế chi thịnh tâm, cố bất mĩ dư? Thị vi tự.
Ung Chính bát niên trọng xuân thập nhị nhật
Dịch nghĩa:
NGỰ CHẾ THƯ KINH TRUYỆN THUYẾT VỰNG TOẢN TỰ
Đại Thanh Thế Tông Hiến Hoàng đế
Trẫm nghĩ: Lục kinh đều là sách được dùng để trị thiên hạ và [lục kinh được coi là phương tiện] để các bậc đế vương đề ra những phép tắc quan trọng, những đạo thường bất biến để phổ khắp rộng rãi. Thời xưa, duy chỉ có sách Thượng thư được coi là hoàn hảo nhất. Có lẽ kể từ khi các vị đế vương nối tiếp trời mà lập ra các chuẩn mực (kế thiên lập cực), răn mình ở chỗ tinh nhất, tin tưởng mà nắm giữ đạo trung (tinh nhất chấp trung), tâm pháp của nhị đế tam vương, cứ lần lượt được truyền thụ qua các đời để mà làm cái phép cai trị đất nước, nhờ đó mà Thư Kinh được lưu truyền. Nay xem xét lại những thứ mà Kinh thư ghi chép đó là chuyện: làm cho trời được thành tựu, làm cho đất được bình ổn, xây dựng và sửa trị bang quốc, kiến dựng quan chế thiết lập giáo học, rộng mở việc dùng các thiết chế về lễ, nhạc, binh, hình, thấy được sự nhàn hạ, hân hoan ca mừng của dân chúng, thấy được rõ những mưu hoạch tốt đẹp của người cầm quyền (gia mưu gia du chi trần cáo). Phàm những việc làm đều nhận mệnh của trời, mà suy cho cùng hiệu nghiệm của nó chính là ở chỗ thân ái hòa mục trong muôn dân và muôn nước (thời ung hiệp hòa), tuy đã trải qua mấy ngàn năm, nhưng vẫn còn có thể thấy được trong đó những kế sách hoàn bị. Mọi điều tốt lành đều nằm ở sự cung kính, sự thông tỏ, sự nghiêm cẩn, sự răn giới (khâm minh dần úy), đó chính là cách mà các vị vua đời trước phô bày nền trị lí, sự trù hoạch công việc của mình, còn các vị vua tôi đời sau kính mệnh vâng theo và cho những thứ đó là khuôn phép, chuẩn mực mà cần truy cứu về sự hưng thịnh của thời Nghiêu Thuấn Tam đại, há chẳng phải đều lấy từ sách [Thượng Thư] này hay sao? Cha của ta là Thánh tổ Nhân Hoàng đế, học vấn uyên thâm, công lao trị hóa rộng mở vô cùng, tất cả là đều dựa vào trong sách này, tâm pháp của Nhị đế Tam vương, được ngài thể hiện ra bên ngoài, còn nền trị lí của Nhị đế tam vương, tất cả đều là ở sự ham học các thiên Điển, mô, huấn, cáo, trầm tính nghiên cứu, dung hội các thuyết để hiểu tường tận (dung hội quán thông) của ngài. Lúc mới đầu, ngài sai các giảng quan chia ngày vào triều giảng giải nghĩa lí của nó, thống nhất hiểu theo nghĩa duy nhất rồi tiến hành ban bố rộng rãi trong thiên hạ, lại sai các nho thần tập hợp các thuyết của Chư gia các thời Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, tham khảo rộng rồi rút ra cách hiểu thống nhất, bàn bạc thêm bớt san định làm sao cho đầy đủ, đối với địa lí sông núi muốn để đời nay hiểu rõ thì phải dựa vào những thứ đời xưa, tuy vậy cũng không xét kĩ càng được hết, nên làm ra cuốn Thư kinh truyện thuyết vựng toản, gồm có 24 quyển. Tiến hành san định, đến khi làm xong cùng với các kinh như Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Xuân Thu tiến hành ban bố rộng rãi. Kính cẩn viết bài tựa và cho khắc vào quyển đầu tiên. Thiên hạ của muôn đời sau, cũng như thiên hạ của thời Đường, Ngu, Tam đại, đều dựa vào phép trị pháp ở trong sách này làm khuôn mẫu. Vốn dĩ tâm pháp là ở tính và mệnh, đời trước và đời sau thì đều giống nhau, các bậc thánh quân, hiền triết của muôn đời phô bày cái đó ra thì chẳng khác nhau. Cho nên các bậc quân vương tất phải đem cái đức của mình để sánh với đức của Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ để sau này không thấy hổ thẹn khi làm một quân vương, kẻ bề tôi tất phải làm trọn được nhiệm vụ của mình giống như các bề tôi Cao, Quỳ, Y, Phó, Chu, Thiệu để sau này không thấy hổ thẹn khi làm kẻ tôi tớ. Trẫm sớm tối răn giới, mong muốn giữ dáng vẻ thành kính để bảo tồn đạo thành, mà nhớ về công lao vĩ đại hiển hách của các vị thánh quân đời trước, muốn dựng hệ thống các quan khanh doãn nắm giữ trăm việc, hòa hợp gắn kết các bề tôi xung quanh mình thành một tổng thể thống nhất, gắng hết sức dùng đức cung kính để mà hòa hợp, thì sẽ được các bậc hiền triết giúp đỡ (hiệp cung lệ dực), điều lí công việc của trời trao cho để được sáng sủa (dần lượng thiên công), hòa hợp hết thảy chí hướng của muôn dân, khiến cho trong ngoài bốn biển (bạc hải nội ngoại), mãi mãi được hưởng nền yên trị. Các vị tông hiền thánh triết cũng đều ngưỡng vọng về sự tôn sùng kinh học của hoàng khảo ta mà mở ra nền thịnh trị tươi đẹp cho muôn đời sau, thế chẳng phải là rất đẹp sao, vì vậy mà làm bài tựa này. Ngày 12 tháng 3 niên hiệu Ung Chính năm thứ 8.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]吴枫主编Ngô Phong chủ biên, Thập tam kinh đại từ điển十三经大辞典, Trung Quốc xã hội xuất bản xã中国社会出版社, Cát Lâm nhân dân xuất bản xã吉林人民出版社, 2000.
[2]新编诸子集成Tân biên chư tử tập thành, 四書章句集注Tứ thư chương cú tập chú (朱熹撰Chu Hy soạn), 中華書局Trung Hoa thư cục, 北京Bắc Kinh, 1933。
[3]李学勤主编Lí Học Cần chủ biên, 十三经注疏Thập tam kinh chú sớ, 尚书正义Thượng thư chính nghĩa, 北京大学出版社Bắc Kinh đại học xuất bản xã, 北京Bắc Kinh, 1999.
[4]李学勤主编Lí Học Cần chủ biên, 十三经注疏Thập tam kinh chú sớ, 礼记正义Lễ kí chính nghĩa, 北京大学出版社Bắc Kinh đại học xuất bản xã, 北京Bắc Kinh, 1999.
[5]李学勤主编Lí Học Cần chủ biên, 十三经注疏Thập tam kinh chú sớ, 周易正义Chu dịch chính nghĩa, 北京大学出版社Bắc Kinh đại học xuất bản xã, 北京Bắc Kinh, 1999.
[6]李学勤主编Lí Học Cần chủ biên, 十三经注疏Thập tam kinh chú sớ, 論語注疏Luận ngữ chú sớ, 北京大学出版社Bắc Kinh đại học xuất bản xã, 北京Bắc Kinh, 1999.
[7]Chu Hy chú朱熹注, Thi tập truyện詩集傳, Trung Hoa thư cục xuất bản中華書局出版, Bắc Kinh北京, 1958.
[8]Thẩm Quỳnh (dịch) – Kinh Thư, Bộ giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1965.
[9]Tông Tinh Diễn soạn孫星衍撰, Trần Kháng陳抗 – Thịnh Đông Linh盛冬鈴điểm hiệu點校, Thập tam kinh Thanh nhân chú sớ十三經清人注疏, Thượng Thư kim cổ văn chú sớ尚書今古文注疏, Trung Hoa thư cục中華書局, Bắc Kinh北京, 1986.
[10]周振甫Chu Chấn Phủ, 文心雕龙今译(附词语简释)Văn tâm điêu long kim dịch (Phụ từ ngữ giản thích), 中华书局Trung Hoa thư cục, 北京Bắc Kinh, 1986.
[11]Bàng Phác chủ biên庞朴主编, Trung Quốc Nho học (quyển 4)中国儒学(第4卷), Đông Phương xuất bản trung tâm东方出版中心, Thượng Hải上海, 1997.
[12]Trần Lê Sáng, Phạm Kỳ Nam (dịch) – Kinh Thư, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2004.